Các kỳ họp Quốc_hội_Việt_Nam_khóa_I

Kỳ họp thứ nhất

Cơ cấu thành phần Quốc hội Việt Nam khóa I tại kỳ họp 1. Đại biểu được bầu (333):      Việt Minh (120);      Dân chủ (46);      Xã hội (24);      Không đảng phái (143). Đại biểu truy nhận (70):      Việt Cách (20);      Việt Quốc (50)

Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I diễn ra vào ngày 2 tháng 3 năm 1946, công nhận Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; Cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (Bảo Đại) đảm nhiệm; Kháng chiến Ủy viên hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch. Quốc hội đã bầu ra Ban Thường trực Quốc hội và Ban Dự thảo Hiến pháp.

Ban Thường trực Quốc hội gồm 15 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết:

Về sau, Ban Thường trực được bổ sung thêm 4 đại biểu Nam Bộ: Tôn Đức Thắng, Dương Bạch Mai làm Ủy viên chính thức và Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Tấn Phát làm Ủy viên dự khuyết.

Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Huy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên.

Tổng số đại biểu Quốc hội là 403, trong đó có 333 đại biểu được bầu bao gồm Việt Minh 120 ghế, Đảng Dân chủ 46 ghế, Đảng Xã hội 24 ghế, không đảng phái 143 ghế. Số đại biểu không qua bầu cử là 70 người gồm 20 đại biểu thuộc Việt Cách (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội) và 50 đại biểu thuộc Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng). Việc có các đại biểu đặc cách không qua bầu cử này là theo thỏa thuận trước cuộc bầu cử, đạt được ngày 24 tháng 12 năm 1945, giữa Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Việc này thể hiện chủ trương của Việt Minh về hoà hợp dân tộc, tập trung lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo báo Độc lập, Hồ Chí Minh phát biểu trong phiên khai mạc Quốc hội: "Có những đồng chí cách mạng người Việt Nam ở hải ngoại vì không có thì giờ tham gia tổng tuyển cử của đảng phái, các dân tộc thiểu số và phụ nữ đều có đại biểu, và như thế không phải là các đại biểu thay mặt cho một đảng phái hay một dân tộc nào mà là đại biểu cho quốc dân Việt Nam".[2]

Giấy chứng nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại biểu Quốc hội khóa 1, năm 1946 do Chính phủ lâm thời cấp ngày 1/3/1946.

Theo Elections in Asia: A data handbook, Volume II trang 324, có 302 ghế, trong đó Việt Minh giành được 182 ghế, Đảng Dân chủ Việt Nam giành 45 ghế, Việt Quốc 26 ghế, Việt Cách 22 ghế, Đảng Xã hội Việt Nam 27 ghế, tuy nhiên có nhiều tài liệu cho biết phe Việt Quốc và Việt Cách dù không qua bầu cử, nhưng nhờ "mặc cả" với Việt Minh nên có 50 và 20 ghế trong Quốc hội. Một số chia thành cánh tả (Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Việt Minh, Xã hội, Dân chủ), cánh hữu (Việt Quốc, Việt Cách), và không đảng phái. Một số thành viên Việt Quốc được xem là cánh tả, ngoài ra còn có cánh hữu, tôn giáo, và dân tộc chủ nghĩa.[cần dẫn nguồn]

Kỳ họp thứ hai

Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (28/10/1946 – 9/11/1946) có 291 đại biểu tham gia (khi đó Quốc hội mở rộng 444 đại biểu) bao gồm: không đảng phái 90 ghế (do Hoàng Minh Châu lãnh đạo), Đảng Dân chủ Việt Nam có 45 ghế, Đảng Xã hội Việt Nam 24 ghế, Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương 15 ghế, Việt Minh 80 ghế, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội 17 ghế, Việt Nam Quốc dân Ðảng 20 ghế.[3] Như vậy, số đại biểu đối lập tại phiên họp này còn 37 trên 70 ghế, số đại biểu ủng hộ Chính phủ là 240.

Phiên họp này cũng biểu quyết thông qua Hiến pháp 1946. Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240 đại biểu tán thành trên 242 đại biểu; hai đại biểu không tán thành là Nguyễn Sơn HàPhạm Gia Đỗ. Tuy nhiên Hiến pháp này chưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ban hành.

Ban Thường trực Quốc hội được bầu tại kỳ họp thứ hai gồm có 18 người:

Ngày 11-11-1946, Ban Thường trực Quốc hội đã họp để bầu ra Ban Thường vụ và các Tiểu ban:

- Ban Thường vụ: gồm 5 người

- Tiểu ban Pháp chế: gồm 8 người do Tôn Quang Phiệt làm Trưởng ban

- Tiểu ban Tài chính Kinh tế: gồm 6 người do Nguyễn Văn Luyện làm Trưởng ban

- Tiểu ban Kiến nghị: gồm 4 người do Trần Huy Liệu làm Trưởng ban.

Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các Ủy viên trong Ban thường trực được phân đi các địa phương ở Liên Khu III, Liên khu Việt Bắc động viên nhân dân kháng chiến. Sau đó các ủy viên tùy theo khả năng và yêu cầu mà tham gia hoạt động kháng chiến ở địa phương, như Ủy ban kháng chiến hành chính, làm phái viên của Chính phủ ở các khu... Bùi Bằng Đoàn được phân công sát bên cạnh Chính phủ để tiếp tục nhiệm vụ của Ban Thường trực. Các ủy viên liên lạc với Trưởng ban Thường trực bằng điện và thư. Tôn Đức Thắng và linh mục Phạm Bá Trực được mời về cùng Trưởng ban điều hành công việc của Ban.

Năm 1947 Chính phủ đã được cải tổ. Một số nhân sĩ, trí thức được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ một số ghế trong Chính phủ nhằm thực hiện tính liên hiệp quốc dân rộng rãi hơn. Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Hoàng Minh Giám giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Tạ Quang Bửu giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đặng Văn Hướng giữ chức Bộ trưởng không giữ Bộ nào. Sau khi Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng qua đời, tháng 11-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Phan Kế Toại giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Ngày 20/1/1948, sau khi được Hội đồng Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội nhất trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 110/SL thụ cấp Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp. Và đến tháng 7-1948, Võ Nguyên Giáp lại giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Việt Nam. Tiếp đến ngày 19-8-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 206/SL thành lập Hội đồng Quốc phòng Tối cao gồm có: Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến, Phó Chủ tịch và các Ủy viên là Phan Kế Toại, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Một số cán bộ quân sự đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thụ cấp Thiếu tướng.

Năm 1948, Bùi Bằng Đoàn ốm phải đi chữa bệnh. Tôn Đức Thắng giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội.

Về Chính phủ, ngày 25-7-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Phạm Văn Đồng giữ chức Phó Thủ tướng và được bổ sung giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng Tối cao.

Tháng 2-1950, Ban Thường trực họp đã bầu bổ sung, ba Ủy viên Dự khuyết đã được bầu làm ủy viên chính thức của Ban Thường trực Quốc hội là Nguyễn Thị Thục Viên, Lê Tư LànhTrần Tấn Thọ thay cho Nguyễn Văn LuyệnHoàng Minh Châu từ trần, Cung Đình Quỳ đã chạy theo Pháp. Ban Thường trực đã bầu ra một Ban Thường vụ mới gồm có Bùi Bằng Đoàn, Tôn Đức Thắng, Tôn Quang Phiệt, Phạm Bá Trực, Dương Đức HiềnTrần Huy Liệu thay mặt Ban Thường trực để giải quyết công việc hằng ngày cũng như liên lạc với Chính phủ.

Ngày 14-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 21/SL đổi tên Bộ Kinh tế thành Bộ Công thương. Việt Nam Công an vụ, một ngành bảo vệ an ninh quốc gia có hệ thống trong toàn quốc đã được thành lập năm 1946. Do yêu cầu đòi hỏi của kháng chiến, ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 141/SL thành lập Thứ bộ Công an và đến tháng 6-1953, Hội đồng Chính phủ đã ra nghị quyết đổi Thứ bộ Công an thành Bộ Công an. Trần Quốc Hoàn được cử giữ chức Bộ trưởng. Tháng 3-1954, Nghiêm Xuân Yêm được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông.

Kỳ họp thứ ba

Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa I diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 12 năm 1953. Tổng số đại biểu vể dự kỳ họp là 166 người, trong đó Bắc Bộ có 94 đại biểu, Trung Bộ có 62 đại biểu, Nam Bộ có 10 đại biểu.

Ngày 4-12-1953, toàn thể Quốc hội biểu quyết nhất trí tán thành Luật Cải cách Ruộng đất. Ngày 19/12/1953, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 197/SL ban bố "Luật Cải cách Ruộng đất". Luật có 5 chương, 38 điều khoản. Thực hiện Luật cải cách ruộng đất, cuộc cải cách ruộng đất đã được tổ chức thí điểm trong phạm vi 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (từ 25-12-1953 đến 30-2-1954) và đợt I của cải cách ruộng đất được tiến hành ở 47 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và 6 xã thuộc tỉnh Thanh Hóa (từ tháng 5 đến tháng 9-1954). Kể từ tháng 4-1953 đến tháng 9-1954 đã tiến hành được 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất trong vùng tự do.

Kỳ họp thứ tư

Kỳ họp thứ tư diễn ra từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 năm 1955.

Dự kỳ họp có 206 đại biểu Quốc hội của cả nước, trong đó Bắc Bộ có 102 đại biểu, Trung Bộ có 61 đại biểu, Nam bộ có 37 đại biểu, 6 đại biểu được "truy nhận"; 37 đại biểu vắng mặt vì lý do đau ốm hoặc đang đảm nhiệm những công tác không thể đến được.

Quốc hội cũng bày tỏ tín nhiệm Ban Thường trực Quốc hội cũ và bổ sung thêm 3 ủy viên mới là đại biểu miền Nam. Ban Thường trực Quốc hội gồm:

- Trưởng ban: Bùi Bằng Đoàn

- Phó trưởng ban:

- Ủy viên chính thức:

Kỳ họp thứ năm

Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa I diễn ra từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 9 năm 1955, có 211 đại biểu tham dự.

Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua quyết định mở rộng và bổ sung Chính phủ: Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cử làm Thủ tướng Chính phủ, và hai Phó Thủ tướng: Phan Kế Toại kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Võ Nguyên Giáp kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Bộ Công thương chia làm hai bộ: Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp; Bộ Giao thông Công chính chia làm hai bộ: Bộ Giao thông và Bưu điện, Bộ Thủy lợi và Kiến trúc. Đặt thêm Bộ Cứu tế. Bộ Tuyên truyền đổi là Bộ Văn hóa và cử Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Với quyết định mở rộng và bổ sung Chính phủ của Quốc hội (20/9/1955) nên thành phần Chính phủ gồm có:

Quốc hội bầu cụ Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cụ Bùi Bằng Đoàn đã từ trần ngày 13/4/1955.

Kỳ họp thứ sáu

Kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa I diễn ra từ ngày 29 tháng 12 năm 1956 đến ngày 25 tháng 1 năm 1957, có 230 đại biểu về dự họp.

Ngày 23/1/1957, Quốc hội đã bầu ra Ban sửa đổi Hiến pháp gồm 29 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban.

Quốc hội đã bầu Ban Thường trực mới gồm:

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 30/5/1957, Hội đồng Chính phủ đã sáp nhập Ban Thống nhất và Ban Quan hệ Bắc - Nam thành Ban Thống nhất Trung ương để tăng cường và tập trung chỉ đạo đấu tranh.

Kỳ họp thứ bảy

Diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 9 năm 1957. Tham dự kỳ họp có 217 đại biểu.

Kỳ họp thứ tám

Diễn ra từ ngày 16 đến ngày 29 tháng 4 năm 1958 với 224 đại biểu.

Quốc hội thông qua đề nghị của Chính phủ cử thêm hai Phó Thủ tướng Chính phủTrường ChinhPhạm Hùng. Cử Nguyễn Duy Trinh làm Bộ trưởng Phủ Thủ tướng và Nguyễn Văn Trân làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Chia Bộ Thương nghiệp thành hai bộ: Bộ Nội thương do Đỗ Mười làm Bộ trưởng và Bộ Ngoại thương do Phan Anh làm Bộ trưởng. Chia Bộ Thủy lợi và Kiến trúc thành hai Bộ: Bộ Thủy lợi do Trần Đăng Khoa làm Bộ trưởng và Bộ Kiến trúc do Bùi Quang Tạo làm Bộ trưởng. Lập Tòa án Tối cao và hệ thống Tòa án, Viện Công tố và hệ thống Công tố (cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp và có quyền hạn trách nhiệm ngang một Bộ) trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Bùi Lâm được cử làm Viện trưởng Viện Công tố; một Phó Chánh án sẽ làm quyền Chánh án. Nâng Ban Dân tộc thành Ủy ban Dân tộc có quyền hạn trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ do Chu Văn Tấn làm Chủ nhiệm; lập Ủy ban Khoa học có quyền hạn trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

Về mặt tổ chức của Ban Thường trực, Quốc hội đã chuẩn y nghị quyết ngày 13/4/1958 của Ban, chấp nhận việc từ chức Ủy viên Ban Thường trực của Hoàng Văn Đức và cử Ngô Tử Hạ, Ủy viên Dự khuyết, làm Ủy viên chính thức thay Hoàng Văn Đức và Nghị quyết ngày 23/4/1958 của Ban về việc cử thêm một Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội nữa là Hoàng Văn Hoan.

Kỳ họp thứ chín

Diễn ra từ ngày 9 đến ngày 14 tháng 12 năm 1958 với sự có mặt của 207 đại biểu.

Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Hội đồng Chính phủ để Nguyễn Duy Trinh thôi giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng để giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Nguyễn Văn Trân, Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Lê Văn Hiến, Bộ trưởng, giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Phạm Ngọc Thạch giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế; Trường Chinh, Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.

Kỳ họp thứ mười

Diễn ra từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 5 năm 1959, có 205 đại biểu.

Quốc hội phê chuẩn việc cử Phạm Văn Bạch giữ chức Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Nguyễn Khang giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.

Ban Thường trực trong phiên họp tháng 5/1959 đã nhất trí với Hội đồng Chính phủ về việc giải thể hai Bộ Cứu tế Xã hội và Thương binh vì sau bốn năm hòa bình, công tác thương binh và liệt sĩ đã giải quyết được phần lớn. Những công việc còn lại của hai bộ được chuyến giao cho các Bộ Nội vụ, Lao động và Y tế đảm nhiệm.

Đến giữa năm 1959, sau mấy lần bổ sung và điều chỉnh, thành phần Chính phủ gồm có:

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh

2. Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng

3. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại

4. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp

5. Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Trường Chinh

6. Phó Thủ tướng Phạm Hùng

7. Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn

8. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên

9. Bộ trưởng Bộ Nội thương Đỗ Mười

10. Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Phan Anh

11. Bộ Trưởng Bộ Thủy lợi Trần Đăng Khoa

12. Bộ trưởng Bộ Kiến trúc Bùi Quang Tạo

13. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh

14. Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Lê Thanh Nghị

15. Bộ trưởng Bộ Nông lâm Nghiêm Xuân Yêm

16. Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch

17. Bộ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Tạo

18. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe

19. Bộ trưởng Bộ Văn hóa Hoàng Minh Giám

20. Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Văn Trân

21. Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Nguyễn Duy Trinh

22. Bộ trưởng giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Lê Văn Hiến

23. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Nguyễn Khang

Kỳ họp thứ mười một

Diễn ra từ ngày 18 đến ngày 31 tháng 12 năm 1959, có 217 đại biểu.

Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã họp phiên toàn thể biểu quyết thông qua Hiến pháp mới với sự nhất trí tuyệt đối: 206 phiếu tán thành trên 206 đại biểu có mặt. Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 1/SL công bố Hiến pháp mới, Hiến pháp 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có Lời nói đầu và 112 điều chia thành 10 chương.

Để đạt được tính chất tiêu biểu của Quốc hội cho cả nước, trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, cuộc Tổng tuyển cử chưa thể tiến hành được ở miền Nam, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua "Nghị quyết kéo dài nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đã được nhân dân miền Nam bầu ra ngày 6-1-1946 cho đến khi có nghị quyết mới".

Kỳ họp thứ mười hai

Diễn ra từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 4 năm 1960, có 211 đại biểu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quốc_hội_Việt_Nam_khóa_I http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tong_tuy... http://web.archive.org/web/20070520052314/http://w... http://dantri.com.vn/xa-hoi/nhung-chuyen-it-biet-v... http://www.na.gov.vn/60namqhvn/www.na.gov.vn/60nam... http://www.na.gov.vn/htx/Vietnamese/C1394/C1410/de... http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien... http://quochoi.vn/ http://www.quochoi.vn/htx/Vietnamese/C1454/C1456/?... http://tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=8... http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?Article...